Thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, ngày 05/7/2018 của Chính phủ về “Chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp” và Quyết định số 30/2019/QĐ-UBND, ngày 22/7/2019 của UBND tỉnh An Giang ban hành “Quy định thực hiện chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh”. Trong thời gian qua, việc liên kết giữa nông hộ – hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) – doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp của tỉnh phát triển mạnh trong vài năm trở lại đây và đem lại hiệu quả thiết thực cho người dân, góp phần thúc đẩy việc nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng cho sản phẩm nông nghiệp của tỉnh. Tuy nhiên, việc triển khai liên kết chuỗi giá trị nông thuỷ sản giữa nông hộ – HTXNN – doanh nghiệp ở một số địa phương còn nhiều bất cập, lõng lẽo, quy mô nhỏ và chưa tương xứng với tiềm năng của các bên tham gia chuỗi. Thực trạng này cho thấy vai trò, năng lực hoạt động, nguồn lực, uy tín của các bên tham gia mang tính quyết định. Đặc biệt, vai trò, năng lực của HTXNN có vị trí quan trọng, quyết định trong việc tổ chức sản xuất để góp phần thực hiện hiệu quả chuỗi giá trị nông thuỷ sản bền vững của tỉnh trong thời gian qua và những năm tiếp theo.
Theo báo cáo của Liên minh Hợp tác xã tỉnh, trong toàn tỉnh An Giang hiện có 247 hợp tác xã (HTX) đang hoạt động trên 06 lĩnh vực: (i) HTX nông nghiệp, thủy sản: 180 HTX (có hơn 16.000 thành viên, tổng số vốn hơn 42 tỷ đồng, tổng tài sản hơn 60 tỷ đồng, doanh thu bình quân 4,5 tỷ đồng/năm, lợi nhuận bình quân 270 triệu đồng/HTX/năm, 126/180 HTXNN đang hoạt động hiệu quả, chiếm 70%); (ii) HTX vận tải: 25 HTX; (iii) HTX tiểu thủ công nghiệp: 05 HTX; (iv) HTX thương mại, du lịch: 12 HTX; (v) HTX tài nguyên và môi trường: 01 HTX; (vi) Quỹ tín dụng nhân dân: 24 quỹ. Trong 247 HTX nêu trên, có tổng số vốn điều lệ là 3.664 tỷ đồng, tổng số tài sản là 5.234 tỷ đồng, tổng doanh thu bình quân 278,4 tỷ đồng, lợi nhuận bình quân 22,62 tỷ đồng, thu nhập bình quân của thành viên/người lao động là 4-5 triệu đồng/người/tháng.
Trong quá trình sản xuất, kinh doanh của các HTX, khi nhận thấy được tầm quan trọng của việc liên kết trong sản xuất, tiêu thụ hàng hoá nên ngày càng có nhiều HTX tham gia liên kết với các công ty, doanh nghiệp trong việc sản xuất và tiêu thụ nông thuỷ sản. Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang và Liên minh Hợp tác xã tỉnh An Giang, trong giai đoạn từ 2016-2020, đã có 93 HTX tham gia liên kết sản xuất, kinh doanh theo chuỗi giá trị lúa gạo gắn kết với 166 doanh nghiệp, cụ thể: Năm 2016, có 22 doanh nghiệp tham gia với diện tích 43.210 ha (chiếm 6,5% tổng diện tích trồng lúa toàn tỉnh); năm 2017, có 50 doanh nghiệp liên kết với diện tích 33.531 ha (chiếm 5,2% tổng diện tích trồng lúa toàn tỉnh); năm 2018, có 30 doanh nghiệp tham gia với diện tích 30.333 ha (chiếm 4,9% tổng diện tích trồng lúa toàn tỉnh); năm 2019 có 42 doanh nghiệp liên kết với diện tích 31.190 ha (chiếm 5,0% tổng diện tích trồng lúa toàn tỉnh) và năm 2020, có 22 doanh nghiệp ký hợp đồng tiêu thụ với diện tích là 43.210 ha (chiếm 6,5% tổng diện tích trồng lúa toàn tỉnh). Trong thời gian qua, UBND tỉnh An Giang và Công ty cổ phần Tập đoàn Lộc Trời đã ký Chương trình thỏa thuận hợp tác về sản xuất nông nghiệp đã tạo điều kiện cho các HTXNN mới được thành lập theo Chương trình này có liên kết với Công ty để tham gia sản xuất lúa gạo vụ Đông Xuân 2020-2021 với diện tích 32.000 ha và dự kiến cuối năm 2021 sẽ đạt 49.200 ha. Thông qua việc liên kết này, các HTXNN sẽ được phát huy hiệu quả tích cực về kỹ thuật canh tác, tăng lợi nhuận; giúp HTXNN nâng cao vai trò, năng lực khi áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến theo tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế, theo quy trình quản lý chất lượng đồng bộ để góp phần thực hiện tốt các mục tiêu của Chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp và Chương trình mục tiêu Quốc xây dựng nông thôn mới của tỉnh An Giang đã đề ra.
Thực trạng hoạt động của các HTX nói chung và HTXNN nói riêng trong thời gian qua cho thấy, các HTXNN trong tỉnh hiện nay hoạt động sản xuất, kinh doanh phần lớn là dịch vụ bơm tưới, bơm tiêu, cung ứng giống (cây trồng, vật nuôi), vật tư nông nghiệp (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật). Việc HTXNN liên kết với doanh nghiệp trong chuỗi giá trị nông sản chủ yếu là liên kết cung ứng giống, vật tư nông nghiệp, bao tiêu sản phẩm đầu ra như HTXNN đứng ra liên kết với các hộ sản xuất để thu mua nông sản bán lại cho các doanh nghiệp để tiêu thụ ra thị trường trong nước và quốc tế chứ ít có HTXNN độc lập thực hiện được một quy trình chuỗi liên kết khép kín từ khâu sản xuất, chế biến, quảng bá, tiêu thụ sản phẩm để nhằm gia tăng giá trị cho HTX. Do đó, vai trò, năng lực của HTXNN rất mờ nhạt trong quá trình tham gia chuỗi giá trị ngành hàng nông thuỷ sản của tỉnh và phần giá trị gia tăng của sản phẩm do HTXNN làm ra không được hưởng lợi trọn vẹn.
Thực tiễn trong thời gian qua cho thấy, khi thực hiện tốt liên kết giữa nông hộ – HTXNN – doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp được thực hiện đồng bộ, vì lợi ích của các bên tham gia sẽ mang lại hiệu quả và niềm tin cho nhau, cụ thể: Một là, góp phần giải quyết khó khăn trong tiêu thụ lúa gạo cho thành viên HTXNN và nông hộ (nông dân). Hai là, giúp doanh nghiệp tạo được vùng nguyên liệu với diện tích lớn, đồng bộ, ổn định. Ba là, giúp giảm chi phí sản xuất, tăng thu nhập do HTXNN khi ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, cơ giới hoá trong sản xuất để tiếm kiệm công lao động và gia tăng năng suất. Bốn là, doanh nghiệp đã có ý thức quan tâm đến việc tham gia liên kết chuỗi giá trị với HTXNN, góp phần xây dựng và phát triển HTXNN để tổ chức sản xuất, xây dựng vùng nguyên liệu lớn, đồng bộ, ổn định thông qua HTXNN. Năm là, HTXNN thụ hưởng được các chính sách hỗ trợ của Nhà nước và doanh nghiệp khi tham gia liên kết. Sáu là, giúp HTXNN tạo việc làm ổn định cho thành viên, cho lao động nhàn rỗi tại nông thôn và duy trì bản chất hoạt động của HTX là vì thành viên.
Trong Chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh An Giang, lúa gạo là một trong những ngành hàng chủ lực của tỉnh trong thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Do đó, khi nông hộ – HTXNN – doanh nghiệp tham gia liên kết chuỗi giá trị sẽ làm gia tăng giá trị, tạo ra sức cạnh tranh, tạo cơ hội việc làm cho thành viên HTXNN, nông hộ (nông dân). Thông qua mối liên kết này, các bên tham gia sẽ chủ động trong kế hoạch sản xuất, kinh doanh, thời gian thu hoạch, chất lượng sản phẩm sẽ được nâng lên do thu hoạch đồng loạt, đúng thời điểm vụ mùa, thời gian tạm trữ sau thu hoạch được rút ngắn, giúp tăng lợi nhuận và hạn chế được những rủi ro tiềm ẩn trong sản xuất và kinh doanh nông sản. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong liên kết giữa nông hộ – HTXNN – doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp của tỉnh trong thời gian qua cho thấy vai trò, năng lực của HTXNN rất quan trọng trong việc thực hiện hiệu quả chuỗi liên kết này nhất là vai trò tổ chức lại sản xuất và trong quá trình tham gia chuỗi giá trị, HTXNN vẫn còn những tồn tại, hạn chế trong quá trình hoạt động như sau:
Một là, HTXNN tuy có tăng về số lượng nhưng chất lượng hoạt động chưa cao, chưa tưng xứng với tiềm năng, đa số HTXNN có quy mô nhỏ, hoạt động sản xuất kinh doanh đơn dịch vụ (như bơm tưới, bơm tiêu, cung ứng giống, vật tư nông nghiệp), HTXNN luôn phải đối mặt với những khó khăn như: Giá cả thị trường luôn biến động, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, dịch bệnh phức tạp (nhất là dịch bệnh Covid-19 hiện nay) đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất, kinh doanh của các HTXNN.
Hai là, Việc tuyên truyền thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012 từ HTXNN đến thành viên, nông hộ còn gặp khó khăn; vai trò của Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc HTX trong việc hỗ trợ các thành viên, nông hộ tiếp cận nguồn vốn vay, chính sách hỗ trợ của Nhà nước, của các tổ chức quốc tế còn hạn chế và việc ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý, điều hành, sản xuất của các HTXNN còn hạn chế.
Ba là, Nguồn kinh phí của Nhà nước, của các tổ chức phi chính phủ lĩnh vực HTX để hỗ trợ phát triển HTXNN còn hạn chế, số lượng HTXNN được tiếp cận các chính sách hỗ trợ chưa nhiều; việc tiếp cận các nguồn vốn từ Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX Trung ương, địa phương và nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng cho các HTX còn hạn chế. Nhiều HTXNN có quy mô nhỏ, cơ sở vật chất làm việc còn gặp khó khăn (rất nhiều HTXNN chưa có trụ sở làm việc), chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của HTX; chế độ thu hút, đãi ngộ, tiền lương chưa tưng xứng nên không thu hút được người có trình độ, người có năng lực về làm việc cho HTXNN và cống hiến lâu dài.
Bốn là, Công tác đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật, quản lý (Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, Ban Kiểm soát/Kiểm soát viên), kế toán của HTXNN chưa đáp ứng được yêu cầu; công tác tài chính, kế toán của HTXNN chưa được thực hiện nghiêm túc, chưa thực hiện kiểm toán nội bộ hằng năm để tăng sự minh bạch và niềm tin của thành viên đối với HTXNN; việc xây dựng phương án sản xuất kinh doanh hằng năm chưa khả thi, báo cáo tài chính hằng năm chưa được quan tâm đúng mức, chưa minh bạch nên làm mất niềm tin của thành viên đối với HTXNN khi họ tham gia.
Năm là, Một số HTXNN sau khi được thành lập thì không đăng ký kinh doanh hoặc có đăng ký kinh doanh nhưng hoạt động hình thức, cầm chừng, thụ động và một số HTXNN hoạt động về quản lý, sản xuất, kinh doanh chưa đúng những quy định của Luật Hợp tác xã năm 2012 và chưa đúng bản chất của HTX.
Sáu là, Chưa có sự liên kết, hợp tác giữa các HTXNN cùng ngành nghề với nhau, nếu có liên kết thì chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp. Nhiều HTXNN có cơ sở vật chất nghèo nàn, khó khăn về vốn sản xuất, trình độ công nghệ lạc hậu; năng lực, trình độ cán bộ quản lý, điều hành còn hạn chế (do số cán bộ này phần lớn xuất thân từ nông dân, lớn tuổi, trình độ thấp, kiến thức về quản lý còn hạn chế); kỹ năng về quản trị, tài chính, kế toán yếu kém và không đáp ứng được nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của HTX trong điều kiện hiện nay.
Qua phân tích những tồn tại, hạn chế nêu trên, để nâng cao vai trò HTXNN trong hệ sinh thái liên kết nông hộ – HTXNN – doanh nghiệp nhằm thực hiện chuỗi giá trị nông thuỷ sản bền vững cần quan tâm và thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
Một là, Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của người dân, doanh nghiệp về bản chất, vai trò, cơ chế hoạt động của HTX trong nền kinh tế quốc gia khi góp phần vào phát triển kinh tế chung của đất nước. Vận động, khuyến khích, hỗ trợ người dân, thanh niên nông thôn tham gia khởi nghiệp theo mô hình HTX. Các HTX cần được tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị ngành hàng, tiếp tục chọn lọc và nhân rộng các mô hình HTXNN kiểu mới có tham gia liên kết sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị với doanh nghiệp để tiêu thụ nông thuỷ sản trong và ngoài nước.
Hai là, Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật, chính sách, hỗ trợ, ưu đãi thông qua các chương trình, đề án nhằm tạo môi trường thuận lợi cho HTX phát triển. Xây dựng Chương trình hỗ trợ phát triển HTXNN giai đoạn 2021-2025 trên cơ sở rà soát, bổ sung, sửa đổi nội dung các văn bản luật, nghị định, thông tư, quyết định hiện hành còn bất cập, chồng chéo để phù hợp với thực tiễn và có tính khả thi cao. Tiếp tục quan tâm công tác củng cố, hợp nhất, nâng chất các HTXNN hiện có, hỗ trợ các HTXNN trong việc xây dựng phương án sản xuất kinh doanh hằng năm theo hướng tiếp cận nhu cầu thị trường; nâng cao hiệu quả hoạt động của HTXNN với nhiều ngành nghề, dịch vụ khác nhau; chú trọng công tác kết nạp thành viên theo hướng chất lượng; khuyến khích thành viên sử dụng sản phẩm, dịch vụ HTXNN nhiều hơn; hỗ trợ HTXNN xây dựng kế hoạch dài hạn để chủ động tham gia liên kết với nông hộ (nông dân), doanh nghiệp trong thực hiện chuỗi giá trị sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hoá.
Ba là, Tăng cường và nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác quản lý HTXNN (Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, Ban Kiểm soát/Kiểm soát viên) các kiến thức, kỹ năng về quản trị, điều hành, kế toán, kiểm toán, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm, đàm phán hợp đồng kinh tế. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với HTXNN và gắn liền với công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp trong việc hỗ trợ phát triển HTXNN gắn với chuỗi giá trị hàng hoá; cần xây dựng kế hoạch dài hạn, khả thi về xử lý các HTXNN không hoạt động, hoạt động hình thức, hoạt động kém hiệu quả; tiếp tục công tác rà soát, phân loại, đánh giá hiệu quả hoạt động của các HTXNN để làm cơ sở sáp nhập, hợp nhất các HTXNN có quy mô nhỏ, hoạt động đơn dịch vụ thành HTXNN, Liên hiệp HTXNN quy mô lớn và hoạt động đa dịch vụ, đa ngành nghề.
Bốn là, Củng cố, kiện toàn Ban Chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, HTX của tỉnh, huyện để thống nhất chỉ đạo thực hiện các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về HTX; có cơ chế lồng ghép các chương trình, đề án, dự án trong nước và quốc tế về lĩnh vực HTX để tận dụng nguồn lực (con người, kinh phí) khi HTXNN tham gia chuỗi giá trị hàng hóa với doanh nghiệp; chọn lọc các mô hình HTXNN hiệu quả để nhân rộng và tạo sức lan tỏa; có chính sách ưu tiên, hỗ trợ, khuyến khích HTXNN mạnh dạn ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ trong hoạt động sản xuất, chế biến, kinh doanh để tham gia tích cực, hiệu quả vào chuỗi giá trị hàng hoá nông thuỷ sản.
Năm là, Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của HTXNN; tiếp tục rà soát, thay đổi chính sách về đào tạo và thu hút người có trình độ, người giỏi về công tác tại HTXNN lâu dài; tiếp tục thực hiện chính sách đưa cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn tại HTX; có chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho HTXNN gắn với chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực của tỉnh; cần thành lập liên hiệp HTXNN để làm đầu kéo cho HTXNN thành viên nhằm tăng quy mô, phát triển sản xuất gắn với chuỗi giá trị hàng hoá.
Sáu là, Cần làm rõ quyền lợi và nghĩa vụ của cả các bên khi tham gia chuỗi giá trị (nông hộ – HTXNN – doanh nghiệp), cụ thể: Nông hộ (nông dân) phải tuân thủ quy trình, kỹ thuật canh tác để đảm bảo về sản lượng, chất lượng sản phẩm trong hợp đồng đã quy định và cam kết bán sản phẩm cho doanh nghiệp sau khi thu hoạch; HTXNN thực hiện khâu tổ chức sản xuất, làm đầu mối trong việc cung ứng sản phẩm đầu vào (giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, dịch vụ bơm tưới,…) và lo đầu ra cho nông hộ sau khi thu hoạch; Doanh nghiệp phải cam kết thu mua hết sản lượng hàng hóa mà HTXNN đã thu hoạch theo giá được thoả thuận trong hợp đồng hoặc giá thị trường tại thời điểm giao dịch.
Bảy là, Tiếp tục phát huy vai trò tư vấn, hỗ trợ, đào tạo của Liên minh Hợp tác xã tỉnh, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc phát triển HTXNN tham gia chuỗi giá trị với doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý nhà nước về HTX cần có những chính sách để HTXNN tiếp cận các nguồn vốn của các tổ chức tính dụng (Ngân hàng thương mại, Quỹ hỗ trợ phát triển HTX, Quỹ tín dụng nhân dân); phân bổ thêm nguồn lực tài chính cho Liên minh Hợp tác xã tỉnh để thực hiện nhiệm vụ tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và năng lực cho cán bộ quản lý chủ chốt của HTX (Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, Ban Kiểm soát/Kiểm soát viên); có chính sách thu hút đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khi xây dựng, triển khai các dự án phát triển vùng nguyên liệu và mô hình liên kết tiêu thụ, phát triển chuỗi giá trị lúa gạo bền vững khi liên kết với HTXNN theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ và Quyết định số 30/2019/QĐ-UBND của UBND tỉnh An Giang.
Tám là, Theo dõi, cập nhật quá trình hoạt động của các HTXNN và thông qua các phong trào thi đua để phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng những mô hình HTXNN tham gia chuỗi giá trị nông thuỷ sản với doanh nghiệp hiệu quả, uy tín để kịp thời biểu dương, khích lệ, khen thưởng các HTXNN này để tạo niềm tin cho các HTXNN khác mạnh dạn tham gia chuỗi giá trị nông thuỷ sản.
Để thực hiện chuỗi giá trị nông thuỷ sản bền vững tại tỉnh An Giang cần có sự liên kết chặt chẽ, bền vững, chia sẽ rủi ro và vì lợi ích giữa các bên tham gia (nông hộ – HTXNN – doanh nghiệp). Do đó, khi thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên sẽ thúc đẩy nâng cao năng lực, vị thế, vai trò của HTXNN trong thực hiện chuỗi giá trị nông thuỷ sản bền vững, góp phần thực hiện có hiệu quả Chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp và Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới của tỉnh An Giang trong hiện tại và những năm tiếp theo./.
Tiến sĩ Đào Thanh Hoàng
Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH-KT tỉnh An Giang