An Giang là một trong 14 tỉnh đầu tiên của cả nước thí điểm thành lập Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) theo Đề án triển khai thí điểm thành lập được ban hành Quyết định số 390/TTg ngày 27/7/1993 của Thủ tướng Chính phủ. Sau gần 30 năm hoạt động, hệ thống QTDND được xem là một kênh dẫn vốn quan trọng đến với nông dân ở khu vực nông thôn, đóng góp quan trọng trong công tác xóa đói, giảm nghèo, hạn chế tệ nạn tín dụng đen, đáp ứng nhu cầu vay vốn sản xuất, kinh doanh, phát triển ngành nghề của bà con thành viên, từng bước cải thiện cuộc sống kinh tế hộ, thúc đẩy kinh tế – xã hội địa phương phát triển. Từ cuối năm 2006 cho đến nay trên địa bàn tỉnh An Giang có 24 QTDND đang hoạt động ổn định.
Tính đến ngày 30/6/2021, hệ thống QTDND có tổng số 118.037 thành viên. bình quân mỗi QTDND có 4.918 thành viên. Tổng nguồn vốn hoạt động là 3.723.150 triệu đồng, so với cuối năm 2000 tăng 3.490.181 triệu đồng (tăng 1.645,58%). Bình quân mỗi QTDND có tổng nguồn vốn là 155.131 triệu đồng. Vốn điều lệ đạt 145.537 triệu đồng, chiếm 3,91% tổng nguồn vốn; bình quân mỗi QTDND có 6.064 triệu đồng vốn điều lệ. Vốn huy động đạt 3.218.239 triệu đồng, chiếm 86,44% tổng nguồn vốn và gấp 22,11 lần vốn điều lệ. Bình quân mỗi QTDND có 134.093 triệu đồng vốn huy động. So với cuối năm 2000 vốn huy động tăng 3.037.831 triệu đồng (tăng 2.005,46%). Thời điểm cuối năm 2000 bình quân mỗi QTDND có 6.312 triệu đồng vốn huy động, cũng thời điểm này vốn huy động chiếm 71,42% tổng nguồn vốn nhưng đến ngày 30/6/2021 vốn huy động chiếm 86,44% tổng nguồn vốn.
Vốn vay đến ngày 30/6/2021 là 46.920 triệu đồng, chiếm 1,26% tổng nguồn vốn. Tại thời điểm cuối năm 2000, vốn vay chiếm 16,44% tổng nguồn vốn của các QTDND thì đến ngày 30/6/2021 vốn vay chỉ còn 1,26% tổng nguồn vốn, điều này chứng tỏ QTDND đã tạo dựng được niềm tin đối với người gửi tiền, chủ động được nguồn vốn hoạt động, ít phụ thuộc vào nguồn vốn vay.
Từ tháng 12/2000 đến 30/6/2021, các QTDND đã cho khoảng 1 triệu lượt thành viên vay vốn với tổng doanh số cho vay là 61.706.270 triệu đồng. Tổng dư nợ cho vay đến ngày 30/6/2021 là 2.814.383 triệu đồng. Dư nợ cho vay chiếm 75,59% tổng nguồn vốn. So với cuối năm 2000 dư nợ cho vay tăng 2.766.226 triệu đồng (tăng 1.446,27%).
Quá trình hoạt động của mình, ngoài việc nộp thuế theo quy định, các QTDND cũng trích một phần từ lợi nhuận sau thuế để tham gia công tác an sinh xã hội do địa phương, ngành phát động như: Xây nhà tình nghĩa, đóng góp kinh phí xây cầu, làm đường nông thôn, giúp đỡ người nghèo, ủng hộ phong trào khuyến học, khuyến tại ở địa phương…
Về chủ trương, chính sách Tỉnh ủy ban hành Chương trình hành động số 06-Ctr/TU, ngày 29/6/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang về phát triển HTX, THT gắn với tổ chức sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị ngành hàng chủ lực tỉnh An Giang năm 2022; Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang ban hành Kế hoạch số 218/KH-UBND, ngày 15/4/2022 về thực hiện Chương trình hành động số 06-Ctr/TU, ngày 29/6/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang về phát triển HTX, THT gắn với tổ chức sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị ngành hàng chủ lực tỉnh An Giang năm 2022; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Chi nhánh tỉnh An Giang đã phối hợp với Liên minh Hợp tác xã tỉnh tỉnh tổ chức Hội thảo “Về tiếp cận vốn tín dụng của HTX với các Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh” nhằm tháo gỡ khó khăn cho kinh tế tập thể, tạo cầu nối giúp các HTX và các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn gặp gỡ, trao đổi về những quy định, chương trình tín dụng tại các TCTD dành cho các HTX, những khó khăn, vướng mắc và tìm ra hướng xử lý phù hợp, giúp các HTX dễ dàng tiếp cận được vốn tín dụng của Ngân hàng nhằm phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Tuy nhiên, chỉ có số ít HTX tiếp cận được vốn tín dụng ngân hàng. Điều này cho thấy còn nhiều rào cản để HTX tiếp cận vay vốn tại các TCTD trên địa bàn là do một số nguyên nhân sau:
Một là, HTX còn thiếu hoặc chưa lập được phương án, dự án sản xuất, kinh doanh khả thi để QTDND và các TCTD thẩm định xem xét cho vay, dẫn đến tiếp cận vốn hạn chế, nhất là tiếp cận vốn vay tín chấp theo Nghị định 55/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tín dụng nông nghiệp nông thôn.
Hai là, Thiếu hoặc không có tài sản bảo đảm, các thành viên HTX chưa mạnh dạn lấy tài sản riêng để bảo lãnh vay vốn ngân hàng, các HTX chưa được bảo lãnh vay vốn thông qua Quỹ Bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ, Quỹ Đầu tư phát triển của tỉnh.
Ba là, Thị trường đầu vào, đầu ra chưa ổn định. Thực trạng cho thấy các HTX chưa chủ động trong quá trình lựa chọn nguồn đầu vào để phục vụ cho sản xuất kinh doanh, hoặc có lựa chọn nhưng chưa ổn định và kém chất lượng dẫn đến sản phẩm đầu ra chưa đạt chất lượng, không đáp ứng được các tiêu chí đặt ra của các doanh nghiệp thu mua hàng hóa. Các HTX chưa ký kết các hợp đồng bao tiêu, thu mua dẫn đến đầu ra không ổn định làm ảnh hưởng đến doanh thu của các HTX, dẫn đến ngân hàng chưa yên tâm để đầu tư vốn cho HTX.
Bốn là, Cơ sở vật chất HTX còn hạn chế; chế độ sổ sách kế toán chưa đúng quy định, tài chính thiếu minh bạch, năng lực quản trị, điều hành còn hạn chế, thiếu các dự án hiệu quả, khả thi.
Năm là, Vốn điều lệ còn thấp, chưa liên kết với các HTX cùng ngành nghề để nâng vốn cũng như quy mô hoạt động, nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Sáu là, Sản phẩm của HTX chưa có thương hiệu. Đa số các HTX sản xuất các sản phẩm còn thô sơ, chưa đột phá trong khâu thiết kế, chưa nhận diện được thương hiệu, chưa tạo sự khác biệt trong sản phẩm. Đặc biệt, chưa mạnh dạn sản
xuất các sản phẩm đặc thù mang thương hiệu riêng biệt của HTX.
Bảy là, Những yếu tố tiềm ẩn trong sản xuất kinh doanh như rủi ro thị trường, rủi ro mùa vụ, rủi ro sản xuất bởi thời tiết khí hậu, tình trạng “được mùa mất giá, được giá mất mùa” vẫn thường xuyên xảy ra với các sản phẩm chủ lực. Các HTX, thành viên HTX chưa mua bảo hiểm nông nghiệp để phòng ngừa rủi ro.
Để cho hoạt động QTDND ngày càng ổn định, phát triển và thành viên, HTX, người dân ở nông thôn tiếp cận được các nguồn vốn vay và phát triển kinh tế cần thực hiện một số giải pháp như sau:
* Đối với các HTX và người dân
Phải xây dựng được phương án, dự án sản xuất kinh doanh khả thi, sổ sách kế toán, tài chính phải rõ ràng, minh bạch đúng quy định.
Phải xây dựng thương hiệu nông sản chủ lực để gia tăng giá trị nông sản tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Phải gắn kết với doanh nghiệp để có hợp đồng bao tiêu sản phẩm đảm bảo tính ổn định lâu dài; từ đó, ngân hàng mạnh dạn xem xét cấp tín dụng.
Phải tăng cường tiềm lực tài chính để có vốn điều lệ đủ lớn, liên kết chuỗi HTX cùng ngành nghề, sản xuất tập trung quy mô lớn. Các HTX mạnh dạn bổ sung vốn lưu động đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại, mở rộng thị trường trong và ngoài nước để ngân hàng có điểu kiện đầu tư hơn.
Nâng cao công tác quản trị, điều hành HTX để phù hợp với yêu cầu hội nhập phát triển sản xuất kinh doanh, đủ sức cạnh tranh với các thành phần kinh tê khác, từng bước tham gia vào thị trường quốc tế.
* Đối với các QTDND và các TCTD
Tăng cường các nguồn vốn tín dụng hỗ trợ chính thức hoặc thông qua các chương trình, dự án của các tổ chức, tạo nguồn vốn có lãi suất phù hợp.
Chủ động tiếp cận các HTX cùng tháo gỡ những khó khăn vướng mắc tạo thuận lợi để từng loại hình HTX tiếp cận vốn dễ dàng.
Cơ cấu lại nợ, giãn nợ, ưu đãi tín dụng cho các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp; phát triển hình thức cho thuê tài chính (cho thuê tài sản) để giúp HTX đổi mới công nghệ.
Mạnh dạn, linh hoạt áp dụng nhiều hình thức bảo đảm tiền vay cho các HTX hoạt động hiệu quả vay tín chấp theo Nghị định 55/NĐ-CP của Chính phủ về Chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp nông thôn bằng tài sản thế chấp, bằng tài sản hình thành từ vốn vay hoặc cho vay tín chấp trên cơ sở quản lý dòng tiền của HTX.
* Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Chấp thuận cho các QTDND trên địa bàn tỉnh An Giang được tiếp tục hoạt động trên địa bàn đã được Ngân hàng Nhà nước cấp phép từ trước khi Thông tư số 04/2015/TT-NHNNN và Thông tư số 21/2019/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được ban hành, với điều kiện là các QTDND phải đáp ứng đủ các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định để hoạt động của các QTDND được ổn định; góp phần cung cấp nguồn vốn với mức lãi suất chấp nhận được cho các khách hàng là thành viên của QTDND (mà chủ yếu là những người đang sinh sống ở vùng nông thôn, chưa tiếp cận được nguồn vốn cho vay của các Ngân hàng thương mại), góp phần hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi, nâng cao đời sống của người dân.
Có cơ chế về địa bàn hoạt động đối với các QTDND thực hiện sáp nhập. Vì trong thực tế sẽ có QTDND không đáp ứng đủ điều kiện về tiêu chuẩn nhân sự sẽ dự kiến sáp nhập vào QTDND khác. Khi đó, đề nghị cho phép QTDND mới sau khi sáp nhập được hoạt động trên địa bàn của cả 02 QTDND trước khi sáp nhập.
Có chủ trương, cơ chế đặc thù giao hệ thống Liên minh HTX Việt Nam; trong đó, có Liên minh HTX tỉnh An Giang xây dựng, triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án HTX và QTDND sử dụng sản phẩm, dịch vụ của nhau. Nhằm giúp các QTDND được phép cho vay, nhận tiền gửi của tất cả các HTX và thành viên trên phạm vi toàn tỉnh; QTDND hỗ trợ vốn hoạt động sản xuất, kinh doanh cho các HTX và có nhiệm vụ xúc tiến thương mại các sản phẩm của HTX trong hệ thống QTDND./.
Phan Quốc Hội
Phó Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh An Giang